Một sản phẩm của BEACON MEDIA
Khám phá nhiều hơn với tài khoản
Đăng nhập để lưu trữ và dễ dàng truy cập những bài viết bạn yêu thích trên Bloomberg Businessweek Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu giấc ngủ cho biết việc nghỉ ngơi có thể phục hồi cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng điều gì sẽ xảy ra khi hàng thập kỷ thiếu ngủ khiến bạn mãi mãi không thể bù đắp?
Minh họa: Sophia Deng cho Bloomberg
Tác giả: Howard Chua-Eoan
03 tháng 10, 2025 lúc 9:30 PM
Tóm tắt bài viết
Tác giả, 66 tuổi, chia sẻ về "món nợ giấc ngủ" do thói quen ngủ ít để theo đuổi sự nghiệp báo chí tại Time và Bloomberg, ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.
Nghiên cứu chỉ ra rằng thiếu ngủ liên quan đến sa sút trí tuệ, bệnh tim mạch, huyết áp cao và tăng nguy cơ tử vong, khiến tác giả lo lắng về tình trạng giấc ngủ bị gián đoạn và không sâu giấc.
Tác giả tìm hiểu về khoa học giấc ngủ, bao gồm nhịp sinh học, các giai đoạn giấc ngủ (nông, sâu, REM), và vai trò của melatonin, adenosine trong việc điều chỉnh giấc ngủ.
Tác giả áp dụng phương pháp "giả vờ ngủ" bằng cách đánh lạc hướng não bộ, thư giãn cơ bắp và tập trung vào các đốm sáng (phosphene) để cải thiện giấc ngủ.
Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghỉ ngơi để phục hồi thể chất và tinh thần, đồng thời trân trọng những giấc mơ, dù ngắn ngủi, như một phần của quá trình xử lý thông tin và ký ức.
Tóm tắt bởi
Tôi thường gặp ác mộng về chuyện trả nợ. Không phải nợ tiền, mà là nợ giấc ngủ. Các chuyên gia cho biết, mỗi lần bạn ngủ ít hơn 7 đến 9 tiếng mỗi đêm, bạn sẽ tích lũy một khoản nợ giấc ngủ, và điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe thể chất lẫn tinh thần.
Trong số những người quản lý giấc ngủ kém nhất, thanh thiếu niên thường đứng đầu. Các em bị mắc kẹt giữa lịch học sớm, hoạt động ngoại khóa, bài tập về nhà và những rối ren của tuổi dậy thì, bao gồm hàng giờ dán mắt vào mạng xã hội hoặc trò chơi điện tử. Trớ trêu thay, đây cũng là độ tuổi cần ngủ nhiều nhất, có thể lên tới 10 tiếng mỗi đêm. Trong khi đó, những người ngoài 60 tuổi như tôi chỉ cần khoảng 7 tiếng. Các chuyên gia nói rằng bạn có thể trả nợ giấc ngủ bằng cách ngủ bù vào ngày hôm sau. Nhưng nếu lũ trẻ không làm vậy ngay thì sao? Liệu chúng có cả đời để bù lại hay không?
Tôi sợ phải tính xem mình đã nợ bao nhiêu giấc. Một hệ thống bệnh viện tại Mỹ từng ước tính rằng, chỉ một giờ nợ ngủ cũng cần đến bốn ngày để phục hồi hoàn toàn. Tôi thừa nhận từng cố ý ngủ ít đi để theo đuổi sự nghiệp báo chí. Sự nhanh nhạy là phẩm chất quý trong công việc, nhưng lại là kẻ thù của giấc ngủ. Kết quả là tôi sống với những đêm dài mất ngủ triền miên.
Ban đầu, tôi thường thức viết đến quá nửa đêm để kịp hạn chót gửi bài cho các biên tập viên của Time. Sau này, khi trở thành biên tập viên, tôi lại thức suốt đêm chỉnh sửa bài cho các phóng viên. Khi được giao phụ trách mạng lưới phóng viên toàn cầu, tôi gần như không có khái niệm ngày đêm, vì mặt trời không bao giờ lặn trong hệ thống đó.
Đến khi rời Time, tôi đã đưa tin về nhiều sự kiện lớn: Bầu cử, cách mạng, nổi dậy ở châu Á và châu Phi, hậu quả của vụ khủng bố 11.9, chiến tranh Trung Đông, các vụ xả súng tại trường học, ba đời giáo hoàng và cả những rắc rối của hoàng gia Anh. Hơn chục năm, tôi sống trong trạng thái nửa thức nửa ngủ, không chỉ để theo sát tin nóng hay các hạn chót, mà còn vì lo cho sự an toàn của đồng nghiệp khi họ tác nghiệp ở vùng chiến sự. Tôi luôn tự hỏi liệu họ có trở về an toàn hay không.
Tôi từng nghĩ mình đã thoát khỏi nhịp sống bất ổn đó. Nhưng bỏ thì không dễ. Tôi từng nói đùa với bạn bè: “Tôi ngủ như trẻ sơ sinh, cứ mỗi tiếng lại tỉnh vì đói, cáu gắt hoặc cần ai đó chú ý.” Chưa đầy một năm sau khi rời Time, tôi gia nhập Bloomberg, nơi sự “mù giờ” lại được xem là lợi thế. Có thời điểm, tôi điều phối các cuộc họp Zoom mỗi tối lúc 8 giờ từ căn hộ ở New York với đồng nghiệp tại Hong Kong, Tokyo, Singapore và Sydney. Sau đó, tôi tiếp tục họp lúc 3 giờ 30 sáng với đội ở London, Berlin và Paris. Tất cả diễn ra sau một ngày làm việc ở văn phòng bên kia Manhattan. Dù đã ngoài 60, tôi vẫn nghĩ: “Mình còn làm được!” Nhưng với giấc ngủ, tôi luôn là kẻ thua cuộc.
Khoảng một năm trở lại đây, lịch làm việc của tôi nhẹ hơn, chủ yếu vì tôi đã quá mệt để theo đuổi tin nóng và chuyển sang vị trí mới. Dù vậy, tôi vẫn thường với tay lấy điện thoại trong bóng tối và mất cả tiếng mới ngủ lại sau khi đã lên giường. Giấc ngủ của tôi giờ đây bị chia cắt. Không còn kiểu giật mình như trẻ nhỏ, mà là sự tỉnh táo mệt mỏi đặc trưng của tuổi già.
Càng lớn tuổi, tôi càng lo lắng. Liệu tôi có đang làm tổn hại đến sức khỏe và tinh thần của mình? Nhiều nghiên cứu cho thấy mất ngủ liên quan đến sa sút trí tuệ, bệnh tim mạch, huyết áp cao và nguy cơ tử vong tăng cao. Tôi thường bừng tỉnh khi trời vừa hửng sáng, dù chỉ mới chợp mắt sau nửa đêm. Có những đêm tôi nằm tám tiếng nhưng chỉ ngủ được năm hoặc sáu. Tôi trằn trọc, mắt mở trừng trừng vì nhớ lại tin tức xưa hoặc vì tiếng chuông nhà thờ St. Paul’s ở London. Tiếng chuông ấy có thể lãng mạn, nếu không vang lên mỗi giờ… đặc biệt là lúc 3 giờ sáng.
Chính trong những khoảnh khắc nhức nhối đó, tôi lại nghĩ đến Cervantes. Trong một cuộc tranh luận với Don Quixote, nhân vật lười biếng nhưng thực tế là Sancho Panza đã kết thúc bằng đoạn độc thoại tuyệt đẹp: “Hạnh phúc thay người đã phát minh ra giấc ngủ, chiếc áo choàng che mọi nỗi nghĩ suy, thức ăn xua tan cơn đói, dòng nước làm dịu cơn khát, ngọn lửa ấm khi rét lạnh, làn gió mát khi oi nồng, và cuối cùng, là đồng tiền chung để mua mọi thứ, là cán cân giúp người chăn cừu đứng ngang hàng với nhà vua, kẻ khờ sánh vai với bậc hiền triết.”
Giấc ngủ ấy giờ đây nghe như một giấc mơ xa vời. Liệu tôi có thể học lại cách ngủ từ đầu? Hay tôi chỉ thật sự được nghỉ ngơi khi mắt nhắm tay xuôi?
Sinh vật đơn bào không ngủ. Cây cối cũng vậy, dù với con người, hình ảnh hạt giống thức dậy và nảy mầm dưới ánh Mặt Trời vẫn mang vẻ đẹp đầy biểu tượng. Phần còn lại của thế giới động vật thì khác: Hầu hết mọi sinh vật đều đi ngủ, kể cả muỗi. Cá mập phải bơi liên tục để không bị chìm, nhưng chúng vẫn có cách nghỉ ngơi riêng. Cá voi sát thủ, loài săn mồi thống trị đại dương, lại ngủ từng bán cầu não. Chúng trôi chậm gần mặt nước, luôn giữ một mắt mở để cảnh giác với nguy hiểm.
Cách mà động vật tiến hóa ra “giấc ngủ” đến nay vẫn còn là điều bí ẩn. Thật khó tin khi một trạng thái bất động và dễ bị tổn thương như vậy lại không làm giảm khả năng sinh tồn. Phần lớn giả thuyết cho rằng giấc ngủ xuất hiện để cơ bắp và mô được phục hồi, đồng thời giúp hệ thần kinh duy trì hiệu quả hoạt động.
Với con người, giấc ngủ là quá trình phức tạp hơn nhiều. Kiến thức của chúng ta về giấc ngủ, và đặc biệt là cách đối phó với việc thiếu ngủ, vẫn còn rất hạn chế. Ngay cả từ “mất ngủ” cũng chưa chính xác, vì tình trạng này có nhiều dạng khác nhau, từ thói quen sinh hoạt thất thường do làm ca đêm đến rối loạn lâm sàng do lo âu hoặc trầm cảm gây ra.
Ngành nghiên cứu giấc ngủ vẫn còn khá non trẻ. Phần lớn các bước đột phá chỉ xuất hiện trong vòng 75 năm trở lại đây. Thuật ngữ “nhịp sinh học”, chỉ cách đồng hồ sinh học nội tại điều chỉnh thân nhiệt, nhịp tim và hormone theo chu kỳ 24 giờ của Trái Đất, chỉ mới được đặt ra vào năm 1959. Cũng trong giai đoạn cuối thập niên 1950, khái niệm về giấc ngủ mới bắt đầu được định nghĩa một cách đầy đủ hơn.
Từ những năm 1950, các nhà khoa học bắt đầu sử dụng điện não đồ (EEG) và điện nhãn đồ (EOG) để ghi lại sóng não và chuyển động của cơ mắt trong khi ngủ. Nhờ đó, họ xác định được bốn giai đoạn giấc ngủ: Nông, sâu hơn, sâu nhất và REM (giai đoạn chuyển động mắt nhanh), nổi tiếng vì đây là lúc hầu hết giấc mơ diễn ra. Bốn giai đoạn này lặp lại theo chu kỳ trong suốt đêm, trừ khi bị gián đoạn bởi việc thức giấc.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện hai chất quan trọng khiến cơ thể cảm thấy buồn ngủ. Loại được biết đến rộng rãi nhất là melatonin, một hormone gây buồn ngủ do tuyến tùng tiết ra khi trời tối, được phát hiện năm 1958. Chất còn lại là adenosine, sản phẩm phụ của quá trình tạo năng lượng trong tế bào não, cũng khiến ta cảm thấy mệt mỏi. Tuy đã được biết từ những năm 1920, nhưng mãi đến năm 1995, vai trò của adenosine trong việc kìm hãm sự tỉnh táo mới được làm rõ. Đến nay, cơ chế hoạt động của nó vẫn tiếp tục được nghiên cứu.
Một số nhà khoa học cho rằng, để chuẩn bị cho việc thức dậy, dịch tủy sống sẽ “rửa” adenosine khỏi não hoặc chuyển nó trở lại thành năng lượng tiềm tàng. Quá trình này được cho là xảy ra trong giai đoạn ngủ sâu nhất, khi sóng não chậm và lớn thay vì nhọn và dày như ở trạng thái tỉnh táo hoặc REM.
Thời điểm cũng đóng vai trò quyết định. Nhịp sinh học của chúng ta được điều chỉnh bởi ánh sáng mà mắt tiếp nhận, tác động đến vùng não kiểm soát việc tiết hormone gây buồn ngủ. Melatonin, chẳng hạn, chỉ được kích hoạt trong bóng tối và tồn tại trong cơ thể khoảng bốn đến năm giờ. Khi chúng ta cố thức khuya rồi dậy sớm, chu kỳ ngủ bị rút ngắn, cản trở quá trình “bảo trì” mà não cần thực hiện, bao gồm cả việc loại bỏ adenosine.
Việc đồng bộ đồng hồ sinh học lại càng khó hơn do ảnh hưởng của văn hóa, công nghệ và kinh tế. Trong 200 năm qua, công nghiệp và thương mại đã áp đặt mô hình ngủ một mạch xuyên đêm. Nhưng trước kia không phải vậy. Cho đến cuối thế kỷ 18, phần lớn người châu Âu vẫn áp dụng kiểu ngủ lưỡng pha: Đi ngủ khoảng 9 giờ tối cho “giấc ngủ đầu tiên”, rồi thức dậy vài tiếng giữa đêm để làm việc nhà, trò chuyện, cầu nguyện hoặc quan hệ tình dục, sau đó quay lại giường cho “giấc ngủ thứ hai” đến khi mặt trời mọc. Trong Don Quixote của Cervantes, sự lười biếng của Sancho Panza được thể hiện ở việc ông ta, khác với ông chủ đầy nhiệt huyết, lại ngủ liền một mạch, bỏ qua cả hai giấc ngủ.
Theo nhà sử học Roger Ekirch, kiểu ngủ lưỡng pha có thể là chuẩn mực từ thời cổ đại. Bên cạnh đó, thói quen ngủ trưa cũng được xem là phản ứng tự nhiên với cơn buồn ngủ buổi chiều do nhịp sinh học gây ra. Tập quán này từng phổ biến ở nhiều nước châu Âu, không chỉ riêng Tây Ban Nha.
Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi Cách mạng Công nghiệp siết chặt kỷ luật lao động. Khi con người phát minh ra khí đốt và đèn điện, ban đêm không còn tối như trước. Họ có thể thức khuya hơn, làm việc lâu hơn. Và thế là chúng ta bị “gaslight” theo đúng nghĩa đen để bước vào kiểu ngủ một pha.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi biết rằng việc thức dậy giữa đêm từng được xem là điều bình thường. Điều này cũng trùng khớp với giả thuyết của một số nhà nghiên cứu: Giờ đầu tiên của giấc ngủ thường là lúc ngủ sâu nhất, giai đoạn mà não bắt đầu loại bỏ adenosine. Nếu đúng vậy, việc tỉnh dậy sau 90 phút kể từ lúc vừa chợp mắt có thể là phản ứng sinh lý tự nhiên, dù vẫn khiến tôi bực bội.
Một vài nghiên cứu hiện đại cũng giúp tôi yên tâm phần nào. Ví dụ, ta không cần quá ám ảnh với con số 8 tiếng ngủ mỗi đêm. Một nghiên cứu năm 2016 về các cộng đồng săn bắt hái lượm cho thấy, họ ngủ trung bình từ 5,7 đến 6,5 tiếng mỗi đêm khi trời nóng, và nhiều hơn một chút vào mùa lạnh. Dù tỉ lệ tử vong ở trẻ nhỏ cao, người trưởng thành trong các cộng đồng này vẫn sống tới tuổi 70, không hề gặp các vấn đề sức khỏe mà chúng ta thường gán cho việc thiếu ngủ như tăng cân, bệnh tim hay tiểu đường. Các khuyến nghị hiện nay chủ yếu dựa vào số liệu thống kê diện rộng, phản ánh thực trạng nghỉ ngơi của người sống trong xã hội công nghiệp. Nhưng bám vào những con số đó để rồi lo lắng đến mất ngủ thì lại phản tác dụng.
Từ đây nảy sinh một phân biệt thú vị: “mất ngủ tâm sinh lý” và “mất ngủ giả”. Trường hợp đầu do lo âu lâm sàng gây ra; trường hợp sau là mất ngủ do… lo mình bị mất ngủ. Vậy nếu tôi lo rằng mình đang bị “mất ngủ giả”, liệu tôi có tiếp tục thức trắng chỉ vì quá bận tâm đến chuyện ngủ? Điện não đồ từng ghi lại trường hợp người cho rằng mình không ngủ lại thực sự đang ngủ đúng vào lúc họ tưởng là còn thức.
Vậy chứng mất ngủ là một trò chơi của tâm trí đến mức nào? Có phải tôi vẫn đang ở trạng thái ngủ nông mỗi khi cố chìm vào vô thức? Chiếc Apple Watch của tôi chia giấc ngủ thành nhiều giai đoạn và đôi lúc xếp tôi vào giai đoạn REM, ngay lúc tôi còn nghĩ mình đang mở mắt chờ đồng hồ báo thức. Nếu như thế cũng được tính là ngủ, có lẽ khoản nợ giấc ngủ của tôi không nặng như tôi tưởng.
Câu hỏi tiếp theo là: Tôi có thể làm gì để tự đánh lừa bản thân, giúp mình ngủ ngon hơn?
Tôi tin nhiều người trong các bạn cũng có mẹo riêng. Còn đây là cách của tôi. Tôi không dám chắc nó có cơ sở khoa học, và khi căng thẳng quá thì cũng vô ích. Nhưng trong vài tháng qua, cách này thường xuyên phát huy hiệu quả, nhất là vào những đêm tôi bị đánh thức bởi một giấc mơ và lo rằng mình sẽ không ngủ lại được. Mấu chốt là: Tôi giả vờ mình đang ngủ, rồi một lúc sau, tôi thật sự ngủ. Giống như đang diễn một vai, bạn phải hoàn toàn hóa thân vào nhân vật "người đang ngủ", làm đúng tất cả những gì người ấy sẽ làm (hoặc không).
Tôi khởi đầu bằng cách đánh lạc hướng bộ não. Tôi gõ ngón tay lên nệm theo nhịp đôi giống như nhịp tim, vừa gõ vừa đếm thầm. Tôi làm 30 nhịp với tốc độ đều, sau đó chậm dần, kết hợp hít thở dài cho mỗi nhịp đôi. Tôi tự nhủ mình đang bắt chước nhịp hô hấp khi ngủ. Rồi tôi tiếp tục làm chậm nhịp thở và dừng gõ tay.
Nếu vẫn chưa ngủ được, tôi chuyển sang thư giãn toàn bộ cơ bắp. Trước hết là tay chân, rồi đến từng ngón tay, ngón chân. Tôi chú ý cả những vùng dễ bị bỏ qua như gáy, da đầu, trán, má, hàm trên, hàm dưới, nướu, lưỡi. Tôi thả lỏng cho đến khi cơ thể hoàn toàn bất động, không còn ham muốn cử động. Mục tiêu là tái tạo trạng thái atonia, sự tê liệt cơ tạm thời thường xảy ra trong giai đoạn ngủ sâu và REM.
Nếu tôi vẫn còn tỉnh táo, tôi nhắm mắt và dõi theo những đốm sáng mờ ảo tên phosphene, thứ ánh sáng xuất hiện dù không có nguồn chiếu sáng. Có thể do mí mắt cọ vào tròng mắt. Tôi để tâm trí mình trôi theo những hình dạng hiện lên trong đó. Lúc đầu chỉ là các vệt sáng chớp nhoáng, sau đó thành hình đa giác thoáng qua. Rồi như một bài kiểm tra Rorschach, chúng biến thành những hình thù rõ ràng hơn: Chim chóc, đường chân trời, khuôn mặt, hay ký ức cũ. Tôi nghĩ đây chính là điều mà Marcel Proust gọi là “kính vạn hoa của bóng tối” trong phần mở đầu đầy mộng mị của Đi tìm thời gian đã mất. Đó là khoảnh khắc tôi đến gần giấc mơ tỉnh nhất. Nếu lúc đó tôi chưa ngủ, thì có lẽ tôi đang mơ rằng mình còn thức.
Bài tập này thường đưa tôi lần lượt đi qua bốn giai đoạn giấc ngủ, từ nông đến REM. Khi hiệu quả, nó chỉ mất khoảng 15 đến 20 phút, bằng đúng thời gian “latency” mà các chuyên gia cho là lý tưởng để chìm vào giấc ngủ sau khi lên giường. Dù đây chỉ là một phương pháp “giả vờ”, và sự thiếu kiên nhẫn có thể khiến nó thất bại, tôi vẫn phải bắt đầu từ đâu đó để bù đắp phần nào món nợ giấc ngủ của mình.
Từ khóa là “nghỉ ngơi”: Cơ hội để cơ thể phục hồi và tái tạo sau căng thẳng cả về thể chất lẫn tinh thần. Dù quá khứ đã khiến sức khỏe tôi bị tổn thương, tôi vẫn có thể chủ động cải thiện chất lượng giấc ngủ để không tiếp tục làm hại bản thân. Nhiều năm qua, tôi luôn thức dậy trong trạng thái chỉ muốn nằm lại giường. Giờ đây, tôi có thể nhận ra rằng mình vừa trải qua một giấc ngủ tốt. Ngoài việc gõ tay và tưởng tượng, tôi còn kéo kín rèm để tránh ánh nắng làm mình tỉnh giấc, và đi ngủ sớm hơn để không bị công việc sáng hôm sau cắt mất giờ nghỉ. Chỉ vậy thôi cũng là một bước tiến.
Vì sao tôi không dùng viên melatonin? Dù hormone này đóng vai trò quan trọng trong nhịp sinh học, tôi luôn nghi ngờ hiệu quả của việc can thiệp vào một cơ chế sinh lý bằng sản phẩm nhân tạo. Hơn nữa, thuốc chưa bao giờ giúp tôi ngủ ngon hơn, thậm chí còn khiến tôi bồn chồn hơn. Tôi không rõ nguyên nhân. Có thể melatonin đang cố gắng điều chỉnh lại mối quan hệ méo mó giữa tôi và ánh sáng, trong khi bản thân tôi chưa sẵn sàng thay đổi thói quen sinh hoạt. Điều tôi cần chỉ đơn giản là được ngủ. Và với những người mất ngủ mãn tính như tôi, nó có thể không phải là lựa chọn phù hợp nhất.
Tôi luôn ganh tị với những người bạn có thể ra lệnh cho cơ thể ngủ ngay lập tức. Tôi hy vọng, theo thời gian và với sự luyện tập, mình cũng sẽ học được cách thả lỏng và nghỉ ngơi dễ dàng hơn khi về già. Tuổi tác mang theo nhiều thay đổi. Tôi mất nhiều thời gian hơn để chìm vào giấc ngủ. Giấc ngủ bị ngắt quãng. Tình trạng tỉnh giấc ở mọi giai đoạn, kể cả lúc đang mơ, cũng xuất hiện thường xuyên hơn sau tuổi 60. Điều đó hiện rõ trên biểu đồ giấc ngủ mỗi sáng trong Apple Watch của tôi.
Hồi nhỏ, tôi gần như không mơ, hoặc nếu có, tôi cũng chẳng thể nhớ. Vì thế, giờ đây tôi càng trân quý những giấc mơ của mình, dù đôi khi bị cắt ngang. Các nhà khoa học cho biết trẻ dưới một tuổi dành tới một nửa thời gian ngủ trong giai đoạn REM, thời điểm giấc mơ xảy ra. Có lẽ vì não bộ các bé phải làm việc không ngừng để tiếp nhận thế giới mới mẻ quanh mình, và mơ là một phần trong quá trình đó. Khi trẻ tròn một tuổi, tỉ lệ này giảm còn 25%. Về sau tiếp tục giảm xuống 20%, rồi còn 17% khi chúng ta bước vào tuổi lục tuần.
Tôi thấy đáng tiếc khi, giữa làn sóng nghiên cứu khoa học bùng nổ suốt 75 năm qua, giấc mơ lại thường bị xem là hiện tượng phụ. Dĩ nhiên, khoa học chỉ có thể đo lường điều gì đó khi nó cụ thể, rõ ràng. Và rất khó thiết kế một thí nghiệm để nghiên cứu những gì nằm sâu trong tầng ý thức. Nhưng chính vì vậy, chúng ta đã bỏ lỡ phần quyến rũ nhất của giấc ngủ: Những giấc mơ.
Lời ca ngợi giấc ngủ của Sancho Panza xoay quanh một niềm tin rằng giấc ngủ có thể xóa nhòa mọi lo toan: Làm dịu cơn đói, xóa bỏ bất công, thậm chí khiến lỗi lầm bị lãng quên. Nhưng giấc mơ dường như chứng minh điều ngược lại, rằng không phải tất cả những gì diễn ra trong giấc ngủ đều bị quên lãng. Cũng như trẻ sơ sinh mơ để thích nghi với thế giới quanh mình, người trưởng thành cũng cần tiếp tục hòa vào nhịp sống biến động không ngừng, khi ngày trôi qua và đêm lại tới.
Tôi không có ý kêu gọi phục hồi thuyết phân tâm học của Freud. Nhưng những hình ảnh mơ hồ, phi lý trong giấc mơ lại là những manh mối về chính con người thật của ta. Trong lịch sử phương Tây, “cung điện ký ức” là một kỹ thuật ghi nhớ cổ xưa, nơi tâm trí tạo ra các công trình tưởng tượng, với từng căn phòng lưu trữ những chi tiết riêng biệt. Khi cần nhớ lại điều gì, bạn chỉ cần bước dọc hành lang đó, đi đúng đến căn phòng ấy, và ký ức sẽ hiện về. Người La Mã cổ đại từng sử dụng kỹ thuật này, và các tu sĩ Dòng Tên đã đưa nó sang Trung Hoa dưới thời nhà Minh.
Bộ não của chúng ta chính là những cung điện ký ức sinh học, liên tục sắp xếp các trải nghiệm trong ngày, rồi pha trộn chúng một cách hỗn loạn nhưng đầy nghệ thuật với những ký ức sẵn có trong mạng lưới thần kinh. Nhà nghiên cứu giấc ngủ Rosalind Cartwright từng viết rằng suốt tám tiếng mỗi đêm, “bộ não bắt đầu chọn lọc những trải nghiệm trong ngày để lưu vào trí nhớ.” Tất cả diễn ra trong giấc mơ, và chính nhờ đó, khi thức dậy, não bộ của chúng ta vẫn giữ được sự linh hoạt. Nó giúp ta học điều mới và vượt qua những điều bất trắc. Giấc mơ có thể chính là tấm bản đồ dẫn lối cho phần đời còn lại khi ta thức.
Nhưng đủ rồi. Tôi không nên suy nghĩ thêm gì nữa. Tôi vẫn còn một món nợ chưa trả mang tên đi ngủ. Và cũng có thể là mơ.
Theo Bloomberg
Theo phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn
https://phattrienxanh.baotainguyenmoitruong.vn/o-tuoi-66-toi-quyet-dinh-tra-mot-doi-no-giac-ngu-54801.html
Tặng bài viết
Đối với thành viên đã trả phí, bạn có 5 bài viết mỗi tháng để gửi tặng. Người nhận quà tặng có thể đọc bài viết đầy đủ miễn phí và không cần đăng ký gói sản phẩm.
Bạn còn 5 bài viết có thể tặng
Liên kết quà tặng có giá trị trong vòng 7 ngày.
BÀI LIÊN QUAN
Gói đăng ký
Truy cập nhanh
Giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp trên mạng số 30/ GP-STTTT do Sở Thông Tin và Truyền Thông thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 24/12/2024
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Võ Quốc Khánh
Trụ sở: Lầu 12A, số 412 Nguyễn Thị Minh Khai, phường Bàn Cờ, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại: (028) 8889.0868
Email: [email protected]
© Copyright 2023-2025 Công ty Cổ phần Beacon Asia Media